Viêm gan B được xem là căn bệnh thế kỉ thứ 2 với tốc độ lây lan và phát triển virus gấp 5 lần so với HIV. Bệnh lây truyền khá nguy hiểm, và người nhiễm virus không hề biết. Các virus xâm nhập vào cơ thể tổn thương tế bào gan gây biến chứng nguy hiểm đến tính mạng con người như suy gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ, nghiêm trọng hơn là ung thư gan và tử vong. Bệnh phát triển âm thầm, hầu như không xuất hiện triệu chứng, nên kết quả điều trị viêm gan B phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng phát hiện bệnh sớm. Bệnh được phát hiện càng sớm thì hiệu quả điều trị càng cao hơn. 

 

 

Viêm gan vi rút B là một bệnh phổ biến toàn cầu, do vi rút viêm gan B (HBV) gây ra. Bệnh có thể lây truyền qua đường máu, đường tình dục, từ mẹ truyền sang con:

       Đường máu:

Virus HBV dễ lây qua đường máu nhất là những người tiếp xúc trực tiếp với máu của người bệnh. Khi đó chỉ cần bản thân có vết trầy xước dù là nhỏ cũng đủ để virus tấn công và phát triển trong cơ thể. 

       Đường tình dục:

Nguyên nhân bị viêm gan B phổ biến nhất chính là quan hệ tình dục một cách bừa bãi. Đây cũng là vấn nạn xã hội cần được lưu ý. Quan hệ với những người mà bản thân không rõ nguồn gốc không sử dụng biện pháp bảo vệ an toàn sẽ trực tiếp gây ra những tác hại mà bạn không thể ngờ tới. Virus HBV có trong dịch tiết của người mắc bệnh, khi quan hệ HBV sẽ xâm nhập trực tiếp qua các vết xước nhỏ khi quan hệ nhất là làm tình bằng đường hậu môn.

       Đường từ mẹ sang con:

Khi người mẹ nhiễm bệnh khả năng lây nhiễm cho con là rất lớn. Virus sẽ âm thầm phát triển lây lan sau khi trẻ chào đời qua đường nhau thai. Vào 3 tháng cuối thai kì chính là thời điểm virus dễ dàng xâm nhập. Vì vậy nếu mẹ bị nhiễm thì nên tiêm vacxin globulin vào 3 tháng cuối để giúp ngăn ngừa khả năng lây nhiễm cho bé. Trẻ sau khi chào đời sẽ được tiêm phòng bằng vacxin để ức chế việc lây lan của virus.

Nếu mẹ nhiễm HBV và có HBeAg (+) thì khả năng lây cho con là hơn 80% và khoảng 90% trẻ sinh ra sẽ mang HBV mạn tính.

       Phòng lây truyền từ mẹ sang con:

- Nếu mẹ mang thai có HBsAg (+): Tiêm vắc xin viêm gan vi rút B liều sau sinh cho trẻ theo chương trình tiêm chủng mở rộng và phối hợp với tiêm kháng thể kháng HBV cho trẻ. Nên tiêm cùng thời điểm nhưng ở hai vị trí khác nhau. Sau đó tiêm đầy đủ các liều vắc xin viêm gan vi rút B cho trẻ theo quy định của chương trình tiêm chủng mở rộng.

- Nếu mẹ mang thai có HBV-DNA > 106 copies/ml (200.000 IU/mL): Dùng thuốc kháng vi rút (lamivudine hoặc tenofovir) từ 3 tháng cuối của thai kỳ. Xét nghiệm lại HBV DNA sau sinh 3 tháng để quyết định ngừng thuốc hoặc tiếp tục điều trị nếu mẹ đủ tiêu chuẩn điều trị. Theo dõi sát người mẹ để phát hiện viêm gan bùng phát.

       Viêm gan vi rút B có thể diễn biến cấp tính, trong đó hơn 90% số trường hợp khỏi hoàn toàn, gần 10% chuyển sang viêm gan mạn tính và hậu quả cuối cùng là xơ gan hoặc ung thư gan.

HBV thuộc họ Hepadnaviridae, có cấu trúc DNA. Dựa vào trình tự các nucleotide, HBV được chia thành 10 kiểu gen khác nhau ký hiệu từ A đến J. HBV có 3 loại kháng nguyên HBsAg, HBeAg và HBcAg, tương ứng với 3 loại kháng nguyên trên là 3 loại kháng thể anti-HBs, anti-HBc và anti-HBe. Sự hiện diện của các kháng nguyên, kháng thể này quan trọng trong việc xác định bệnh, thể bệnh cũng như diễn biến bệnh.

       Theo dõi điều trị:

- Tuân thủ điều trị: cần tư vấn cho bệnh nhân về lợi ích của việc tuân thủ điều trị và các biện pháp hỗ trợ tuân thủ điều trị (phương tiện nhắc uống thuốc).

- Tháng đầu tiên sau khi bắt đầu điều trị: theo dõi AST, ALT, creatinine máu.

- Sau mỗi 3-6 tháng trong quá trình điều trị: theo dõi AST, ALT, creatinine máu, HBeAg, Anti-HBe, HBV-DNA, có thể định lượng HBsAg.

- Nếu điều trị IFN hoặc Peg IFN: theo dõi công thức máu, glucose máu, ure máu, creatinin máu, chức năng tuyến giáp để phát hiện tác dụng không mong muốn của thuốc.

- Sau khi ngưng điều trị:

+ Theo dõi các triệu chứng lâm sàng.

+ Xét nghiệm sau mỗi 3 - 6 tháng: AST, ALT, HBsAg, HBeAg, anti-HBe, HBV DNA để đánh giá tái phát.

       Phòng chủ động:

- Tiêm vắc xin viêm gan vi rút B cho tất cả trẻ em trong vòng 24h sau sinh và các mũi tiếp theo lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi theo chương trình tiêm chủng mở rộng.

- Tiêm vắc xin viêm gan vi rút B cho các đối tượng chưa bị nhiễm HBV. Cần xét nghiệm HBsAg và anti-HBs trước khi tiêm phòng vắc xin.

- Tiêm vắc xin viêm gan vi rút B cho nhân viên y tế.

Hiện nay đã có vắc xin dự phòng nên làm giảm rõ rệt số người nhiễm mới HBV.