Bệnh sởi là bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường hô hấp do virut sởi gây nên. Trước đây bệnh sởi chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, hay xảy ra vào mùa đông xuân. Hiện nay bệnh có thể xuất hiện ở người lớn do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng chưa được tiêm nhắc lại đầy đủ. Bệnh có biểu hiện đặc trưng là sốt, viêm long đường hô hấp, viêm kết mạc và phát ban, có thể dẫn đến nhiều biến chứng như tiêu chảy, viêm phổi, viêm não, viêm tai giữa, viêm giác mạc… thậm chí có thể gây tử vong.

        Bệnh sởi nặng hoặc các biến chứng của sởi có thể gây ra do vi rút sởi hoặc do bội nhiễm sau sởi (thường xảy ra ở trẻ suy dinh dưỡng, đặc biệt trẻ thiếu vitaminA, trẻ bị suy giảm miễn dịch do HIV hoặc các bệnh khác, phụ nữ có thai). Hầu hết trẻ bị sởi tử vong do các biến chứng.

        Theo Hướng dẫn, bệnh sởi biểu hiện dưới 2 dạng: Thể điển hình và thể không điển hình.

        - Đối với thể điển hình có 4 giai đoạn bệnh: Giai đoạn ủ bệnh từ 7-21 ngày (trung bình 10 ngày).

        Giai đoạn khởi phát (giai đoạn viêm long): Từ 2-4 ngày với các biểu hiện: người bệnh sốt cao, viêm long đường hô hấp trên và viêm kết mạc, đôi khi có viêm thanh quản cấp, có thể thấy hạt Koplik là các hạt nhỏ có kích thước 0,5-1 mm màu trắng/xám có quầng ban đỏ nổi gồ lên trên bề mặt niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm trên).

        Giai đoạn toàn phát kéo dài từ 2-5 ngày. Thường sau khi sốt cao 3-4 ngày, người bệnh bắt đầu phát ban, ban hồng dát sẩn, khi căng da thì tan biến mất, xuất hiện từ sau tai, sau gáy, trán, mặt, cổ, dần lan đến thân mình và tứ chi, cả ở lòng bàn tay và gan bàn chân. Khi ban mọc hết toàn thân thì thân nhiệt giảm dần.

        Giai đoạn phục hồi: Ban nhạt màu dần rồi sang màu xám, bong vẩy phấn xẫm màu, để lại vết thâm vằn da hổ và biến mất theo thứ tự như khi xuất hiện. Nếu không xuất hiện biến chứng thì bệnh tự khỏi. Có thể có ho kéo dài 1-2 tuần sau khi hết ban.

        - Ở thể không điển hình: Biểu hiện lâm sàng có thể sốt nhẹ thoáng qua, viêm long nhẹ, phát ban ít, toàn trạng tốt. Thể này dễ bị bỏ qua, dẫn đến lây lan bệnh mà không biết.

        Người bệnh cũng có thể sốt cao liên tục, phát ban không điển hình, phù nề tứ chi, đau mỏi toàn thân, thường có viêm phổi nặng kèm theo. Xét nghiệm có thể có tăng men gan.

        Các biểu hiện lâm sàng của bệnh sởi gồm: Ho, sốt, viêm long (đường hô hấp, kết mạc mắt, tiêu hóa), hạt Koplik và phát ban đặc trưng của bệnh sởi.

        Cận lâm sàng

- Xét nghiệm cơ bản: Công thức máu thường thấy giảm bạch cầu, giảm bạch cầu lympho và có thể giảm tiểu cầu, Xquang phổi có thể thấy viêm phổi kẽ. Có thể tổn thương nhu mô phổi khi có bội nhiễm.

- Xét nghiệm phát hiện virut: Xét nghiệm huyết thanh học: Lấy máu kể từ ngày thứ 3 sau khi phát ban tìm kháng thể IgM. Những nơi chỉ làm được IgG thì lấy hai mẫu huyết thanh giai đoạn cấp và giai đoạn hồi phục để xác định hiệu giá kháng thể. Hiệu giá kháng thể lần 2 cao gấp ít nhất 4 lần so với lần đầu. Phân lập virut, phản ứng khuếch đại gen (RT-PCR) nếu có điều kiện.

        Chẩn đoán xác định

- Yếu tố dịch tễ: Có nhiều người mắc bệnh cùng lúc trong gia đình hoặc trên địa bàn dân cư.

- Lâm sàng: Sốt, viêm long và phát ban đặc trưng của bệnh sởi.

- Xét nghiệm phát hiện có kháng thể IgM đối với virut sởi.

- Chẩn đoán phân biệt: Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh có phát ban dạng sởi:

- Rubella: Phát ban không có trình tự, ít khi có viêm long.

- Nhiễm enterovirus: Phát ban không có trình tự, hay kèm rối loạn tiêu hóa.

- Bệnh do Mycoplasma pneumoniae: Sốt nhẹ, đau đầu và viêm phổi không điển hình.

- Sốt mò: Có vết loét hoại tử do côn trùng đốt.

- Phát ban mùa xuân trẻ em: Thường gặp ở trẻ 6 tháng đến 2 tuổi, khởi đầu là tình trạng nhiễm khuẩn rồi có biểu hiện thần kinh, sau khi hết sốt thì ban mới mọc.

- Ban dị ứng: Kèm theo ngứa, tăng bạch cầu ái toan.

- Nhiễm virut Epstein - Barr: Hay kèm theo tăng bạch cầu đơn nhân.

Biến chứng thần kinh

- Viêm não màng não cấp tính: Thường xuất hiện khi bệnh vào giai đoạn hồi phục. Biểu hiện lâm sàng có thể sốt lại, đau đầu, cứng gáy, co giật và thay đổi ý thức từ lú lẫn, ngủ gà tới hôn mê. Ngoài ra có thể có thất điều, rung giật cơ, múa giật - múa vờn và các dấu hiệu viêm tủy như liệt hai chi dưới, liệt tứ chi, mất cảm giác, rối loạn cơ tròn... Dịch não tủy có tăng tế bào, chủ yếu tế bào lympho và có tăng protein.

- Bên cạnh viêm màng não cấp tính còn có thể viêm não sau khi mắc sởi nhiều năm.

Biến chứng bội nhiễm hay gặp ở trẻ em

- Sau khi ban bay, bệnh nhân sốt lại, có tình trạng nhiễm khuẩn, bạch cầu máu ngoại vi tăng.

- Có thể gặp bội nhiễm ở các bộ phận sau: Viêm tai giữa, viêm thanh quản, viêm phế quản phổi, viêm phổi, lao tiến triển, viêm loét hoại tử miệng (cam tẩu mã), tiêu chảy, viêm kết - giác mạc, viêm cơ tim, phụ nữ mang thai bị sởi có thể bị sảy thai, thai chết lưu, đẻ non hoặc thai nhiễm sởi tiên phát.

Nguyên tắc điều trị: Bệnh nhân sởi cần được cách ly; điều trị hỗ trợ; phát hiện và điều trị sớm biến chứng.

Điều trị hỗ trợ: Vệ sinh da, mắt, miệng họng; tăng cường dinh dưỡng.

- Áp dụng các biện pháp hạ nhiệt vật lý như lau nước ấm, chườm mát.

- Dùng thuốc hạ sốt paracetamol khi sốt cao.

- Bồi phụ nước, điện giải qua đường uống. Chỉ truyền dịch duy trì khi người bệnh nôn nhiều, có nguy cơ mất nước và rối loạn điện giải.

- Bổ sung vitamin A: Trẻ 6 - 12 tháng tuổi: 100.000 đơn vị liều duy nhất; trẻ trên 12 tháng tuổi và người lớn: 200.000 đơn vị liều duy nhất; những trường hợp có biểu hiện bệnh về mắt do thiếu vitamin A: lặp lại liều trên vào ngày 2 và ngày 28.

        Điều trị các biến chứng

Điều trị kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn. Hạn chế truyền dịch nếu bệnh nhân có biến chứng viêm phổi, viêm não hoặc viêm cơ tim.

Trường hợp viêm não màng não cấp tính: tích cực điều trị hỗ trợ duy trì chức năng sống.

Chống co giật: Phenobarbital 10 - 20mg/kg pha trong glucose 5% truyền tĩnh mạch trong 30-60 phút. Lặp lại 8 - 12 giờ nếu cần. Có thể dùng diazepam đối với người lớn 10mg/lần tiêm tĩnh mạch.

Chống phù não: nằm đầu cao 30 độ, cổ thẳng (nếu không có tụt huyết áp); thở ôxy qua mũi 1 - 4 lít/phút, có thể thở ôxy qua mask hoặc thở CPAP nếu bệnh nhân còn tự thở được.

Đặt nội khí quản sớm để giúp thở khi điểm Glasgow < 12 điểm hoặc SpO2 < 92% hay PaCO2 > 50mmHg. Thở máy khi Glasgow < 10 điểm; mannitol 20% liều 0,5 - 1g/kg, 6 - 8 giờ/lần, truyền tĩnh mạch trong 15 - 30 phút.

Chống suy hô hấp (suy hô hấp do phù phổi cấp, hoặc viêm não): Thông đường thở: hút sạch đờm dãi; thở ôxy 3 - 6 lít/phút, duy trì SpO2 > 92%;

Đặt nội khí quản, thở máy nếu có cơn ngừng thở hoặc thất bại với thở ôxy

Có thể dùng dexamethason 0,5mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch chia 4 - 6 lần trong 3 - 5 ngày.

Nên dùng thuốc sớm ngay sau khi bệnh nhân có rối loạn ý thức. Dùng thêm immunoglobulin đa giá nếu có điều kiện, liều dùng 0,1 - 0,4g/kg/ngày truyền tĩnh mạch trong 6 - 8 giờ trong 2 - 5 ngày liên tiếp.

        Hiện nay, bệnh sởi không có điều trị đặc hiệu, chỉ có điều trị hỗ trợ. Người mắc bệnh sởi cần được cách ly, phát hiện và điều trị sớm biến chứng. Đối với điều trị hỗ trợ, người bệnh sẽ được vệ sinh da, mắt, miệng, họng, tăng cường dinh dưỡng; đồng thời bổ sung vitaminA cho trẻ nhỏ để tăng cường sức đề kháng. Điều trị các biến chứng được phân ra thành: viêm phổi do vi rút, viêm phổi do vi khuẩn mắc trong cộng đồng, viêm phổi do vi khuẩn mắc tại bệnh viện, viêm thanh khí quản, viêm não màng não cấp tính.

        Hướng dẫn đã qui định cụ thể hoạt động phân tuyến điều trị như: tuyến xã, phường tư vấn, chăm sóc và điều trị người bệnh không có biến chứng; tuyến huyện tư vấn, chăm sóc và điều trị người bệnh có biến chứng hô hấp nhưng không có suy hô hấp; tuyến tỉnh chăm sóc và điều trị tất cả các bệnh nhân mắc sởi có biến chứng; tuyến Trung ương chăm sóc và điều trị người bệnh có biến chứng vượt quá khả năng xử lý của tuyến tỉnh.

        Để phòng bệnh chủ động, các bậc phụ huynh cần cho trẻ trong độ tuổi tiêm chủng tiêm đủ 2 mũi vắc xin phòng bệnh sởi của dự án tiêm chủng mở rộng quốc gia (mũi đầu lúc 9 tháng tuổi).

 

 

        Khi mắc bệnh, người bệnh phải được cách ly tại nhà hoặc tại cơ sở điều trị theo nguyên tắc cách ly đối với bệnh lây truyền qua đường hô hấp; sử dụng khẩu trang phẫu thuật cho người bệnh, người chăm sóc, tiếp xúc gần và nhân viên y tế. Hạn chế việc tiếp xúc gần không cần thiết của nhân viên y tế và người thăm người bệnh đối với người bệnh. Thời gian cách ly từ lúc nghi mắc sởi cho đến ít nhất 4 ngày sau khi bắt đầu phát ban.

        Để phòng lây nhiễm bệnh sởi trong bệnh viện, các bác sỹ phải phát hiện sớm và thực hiện cách ly đối với các đối tượng nghi sởi hoặc mắc sởi. Đồng thời, sử dụng Immune Globulin (IG) tiêm bắp sớm trong vòng 3-6 ngày kể từ khi phơi nhiễm với sởi cho các bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện vì những lý do khác. Không dùng thuốc này cho trẻ đã tiêm phòng đủ 2 mũi vắc xin sởi…/.