Khu di tích du lịch Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng hẹp có đường kính khoảng 2km, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 70km về hướng Tây - Tây Nam, cách Trà Kiệu - kinh thành cũ của vương quốc Chămpa xưa 20km về phía Tây.

        Đền tháp ở Mỹ Sơn tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo Chămpa. Với lịch sử xây dựng và phát triển liên tục suốt 9 thế kỷ (từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII), các đền tháp nơi đây có nhiều kiểu thức kiến trúc phong phú, song nhìn chung các đền tháp có tư thế vút lên cao biểu trưng cho sự vĩ đại và thanh khiết của ngọn núi Mêru (Ấn Độ).

        Hầu hết các đền tháp và các công trình phụ đều được xây bằng gạch với một kỹ thuật tinh tế. Các mô típ trang trí hoa văn trên các trụ đá cùng với những tượng tròn và phù điêu sa thạch được chạm khắc dựa theo các thần thoại Ấn Độ giáo… Sự kết hợp hài hòa với những mô típ chạm trổ tinh xảo trên các mảng tường gạch ngoài tháp đã tạo cho quần thể đền tháp Mỹ Sơn vẻ đẹp mỹ miều sinh động mang những nét đặc trưng nhất của các phong cách nghệ thuật Chămpa.

        Là một quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, Shiva là vị thần được tôn thờ tại vương quốc Chămpa. Đền thờ tại Mỹ Sơn được các vương triều Chămpa xây dựng để thờ chính vị thần vua của mình. Sự kết hợp giữa vương và thần được thể hiện qua tượng Linga. Từ những buổi ban đầu sơ khai, gần như người nghệ sĩ Chăm học cách trang trí mỹ thuật và thực hiện nó theo người Ấn Độ (Mỹ Sơn E1). Nhưng rồi dần về sau, tính bản địa đã được thể hiện. Theo thời gian, qua giao tiếp với các nền văn minh khác và sự tiếp nhận chọn lọc của người nghệ sĩ Chămpa; đền tháp tại Mỹ Sơn mang những đường nét kiến trúc theo các thời kỳ khác nhau thể hiện các luồng văn hóa mà họ tiếp nhận. Là khu đền thờ chính của vương quốc trong suốt chín thể kỷ, nên các đền tháp của Mỹ Sơn cũng thể hiện tính thăng trầm của các thời kỳ, những thay đổi trong lịch sử của các vương triều, những chuyển biến trong đời sống văn hóa.

        Tuy chỉ là những công trình xây dựng có kích thước vừa và nhỏ, nhưng kiến trúc của Mỹ Sơn đã chắt lọc được những tinh hoa của người nghệ sĩ, sự kết hợp giữa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí người Chămpa xưa đã tạo cho các đền tháp một vẻ uy nghiêm và kỳ bí.

 

Thánh địa Mỹ Sơn

 

        Thánh địa Mỹ Sơn tọa lạc trong một thung lũng kín có địa thế núi non hùng vĩ, thâm nghiêm. Nơi đây, với hơn 70 công trình kiến trúc đền tháp của nền văn minh Chămpa được kết tinh trong những di chứng vật chất trường tồn, chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật được tạo lập trong một thời gian dài suốt 9 thế kỷ (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII), được đánh giá ngang hàng với các di tích nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á như Ăngko, Pagan, Bôrôbudua.

        Kazik (Kazimiers - Kwiatkowski) - người kiến trúc sư tài ba nhiều năm gắn bó với Mỹ Sơn đã thốt lên người Chămpa cổ đã gửi tâm linh vào đất đá; và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ -  thâm nghiêm - hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân loại mà sẽ còn lâu chúng ta mới hiểu hết.

        Thời gian và chiến tranh đã tàn phá di tích nặng nề. Nhưng những gì còn lại ở Mỹ Sơn vẫn đóng một vài trò cực kỳ quan trọng trong di sản lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật thế giới.

        Trước những giá trị nổi bật toàn cầu của một khu di sản văn hóa cần phải được bảo vệ vì lợi ích của cả nhân loại, ngày 4/12/1999, tại thành phố Marr Kesk - Nước cộng hòa Marocco, khu di tích Mỹ Sơn được ghi danh vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO.

        Lịch sử - Văn hóa của Thánh địa Mỹ Sơn

        Vào thế kỷ thứ IV, dưới vương triều Bhadravaman thung lũng Mỹ Sơn (nay thuộc xã Duy Phú - Duy Xuyên - Quảng Nam) được chọn làm thánh đô - trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng quan trọng của vương quốc Chămpa. Thung lũng này có đường kính khoảng 2km, được bao bọc bởi các dãy núi cao. Gồm núi thiêng Mahaparvata hay thần Siva nằm về phía Nam. Núi Kucaka ở phía Tây. Núi Subala ở phía Đông. Dòng suối khởi nguồn từ ngọn núi thiêng chảy về hướng Bắc nối với sông Thu Bồn, tiếng Phạn là Mahanadi, hay nữ thần Ganga vợ của thần Siva.

 

       

        Địa điểm thung lũng nằm về phía Tây kinh thành Simhapura (Trà Kiệu) - trung tâm quyền lực, vùng cửa biển Đại Chiêm (Hội An) - trung tâm thương mại- Cù Lao Chàm án ngữ phía Đông. Phức hệ đất thiêng, núi thiêng, thành phố thiêng, cửa biển thiêng là phức hệ quan trọng trong việc hình thành và phát triển của Mỹ Sơn cũng như của tiểu quốc Amaravati (vùng Quảng Nam ngày nay).

        Sự giao lưu văn hóa, tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ trong đó có tín ngưỡng tôn giáo. Hiudu giáo dần khẳng định vai trò trong xã hội Chămpa, chi phối mọi mặt đời sống chính trị - xã hội. Mỹ Sơn trở thành trung tâm tôn giáo cực thịch và quan trọng nhất của các vương triều Chăm cổ.

        Mỹ Sơn là nơi xây dựng đền thờ, hành lễ, thờ tự. Nơi xác nhận với thần linh về sự trị vì của các đời vua Chăm. Nơi đền tháp được dựng lên để tưởng nhớ những chiến thắng và những cuộc chinh phục vĩ đại, đồng thời cũng là nơi các vị vua sau khi chết, linh hồn họ được quy tụ với các bậc thánh thần của đạo Hindu, đặc biệt là thần Siva (đấng toàn năng), được coi là người sáng lập ra vương quốc Chămpa.

        Đương thời, tín ngưỡng thần Siva - đấng sáng tạo và hủy diệt của Ấn Độ giáo được hợp nhất với vua để thờ tự tại Mỹ Sơn. Ngôi đền đầu tiên được dựng  bằng gỗ, thờ thần - vua Bhadresvara là sự kết hợp theo dạng này (kết hợp tên thần Isvara - tức Siva - với tên vua Bhadravarman) thần được thờ dưới dạng biểu tượng bộ sinh thực khí. Bộ linga thờ này là biểu hiện cổ nhất của sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền ở Đông Nam á.

        Hơn hai thế kỷ sau, vào khoảng giữa những năm 529 - 577, ngôi đền này không may bị hỏa hoạn.

        Chữ viết, kiến trúc còn lại cho thấy vào thế kỷ thứ VII Mỹ Sơn, vua Sambhuvarman đã phục hồi lại ngôi đền đầu tiên và quốc hiệu Chămpa đã xuất hiện trong bài minh của vua Sambhuvarman. Từ đó về sau, các vị vua sau khi lên ngôi đều cho xây dựng ở Mỹ Sơn những đền tháp mới hoặc tu bổ lại các ngôi đền cũ bị thời gian và chiến tranh hủy hoại. Vì vậy, Mỹ Sơn dần phát triển thành thánh địa của cả vương quốc.

        Năm 653, Prakasadharma lên ngôi đã xây nhiều đền thờ tại Mỹ Sơn, cúng dâng nhiều đất đai, của cải cho thần Srisambhubhadresvara. Ông là người dựng nên ngôi đền thờ thần Kuvera (Tài lộc) tại Mỹ Sơn.  

        Khoảng thời gian từ năm 749 đến năm 875 đã có một sự chuyển đổi về mặt chính trị khi sự trị vì vương quốc thuộc về thị tộc Cau (Kramukavamsa) ở phía Nam. Viraphura (thành phố Hùng Tráng) được chọn làm kinh đô. Một thánh địa mới ra đời đó là Pô Nagar ở vùng Kauthara (Nha Trang) thờ nữ thần mẹ của vương quốc. Thánh địa Srisambhubhadresvara (Mỹ Sơn) ít được chú ý hơn.

       Cuối thế kỷ IX đạo Phật phát triển mạnh và có vai trò trong vương triều Chăm, trở thành quốc giáo, vua Indravarman II đặt lại kinh đô ở vùng Quảng Nam - Indrapura (thành phố Sấm Sét) và dựng Vihara (Phật viện) ở Đồng Dương (cách Trà Kiệu) 20km về phía Nam. Đây chính là thánh địa lớn thứ ba của vương quốc Chămpa.

        Sang đầu thế kỷ thứ X, Siva giáo được phục hưng, trong vương quyền đạo Phật mất dần vai trò. Thánh địa Mỹ Sơn được phục hồi lại. Các đền tháp cũ được tu bổ, hàng loạt thánh đường mới được xây dựng làm Mỹ Sơn có một bộ mặt mới. Đây là giai đoạn các công trình kiến trúc phát triển liên tục mà số lượng còn nhiều ở Mỹ Sơn.

        Nhưng các cuộc chiến tranh trong thế kỷ XI xảy ra giữa Chămpa với các quốc gia lâng bang đã tàn phá vương quốc Chămpa và các đền tháp ở khu vực Mỹ Sơn. Văn bia cổ ghi lại: Quân thù đã xâm lược và thống trị đất nước…, đã phá sạch các tỉnh thành của vương quốc, đã cướp bóc ngôi đền Sriranabhadresvara. Vì vậy ngôi đền này bị bỏ hoang không còn thờ phụng gì nữa… Ngài (tức vua Hảivarman, trị vì từ 1074 đến khoảng 1081) đã đánh bại quân giặc và cho trùng tu lại đền Sriranabhadresvara… Một bia ký khác chép rõ hơn: Nhà vua sửa lại các ngôi tháp, các đền miếu và những nơi thờ tự khác dành cho việc thờ phụng Sriranabhadresvara và làm cho chúng trở nên hoàn toàn đẹp đẽ…

        Các vua sau đó (Paramabodhisattva và Giaya Indravarman II) chỉ cúng của cải và đồ tế tự. Vua Harivarman V và Giaya Indravarman III có xây thêm những đền tháp nhỏ ở Mỹ Sơn. Đến năm 1149, Giaya Harivarman I lên ngôi lập kinh đô mới ở ViJaya ( Đồ Bàn, Bình Định) nhưng cũng cho tu bổ các thánh đường và dựng hai ngôi đền lớn ở Mỹ Sơn. Vị vua tiếp nối Indravarman IV không xây dựng nhiều nhưng dâng vàng bạc trang điểm dát lên mái các đền tháp. Số lượng kim loại quý đã sử dụng lên tới 1.470 kg (J. Boisselier: 1963)

        Năm 1234 đức vua Sri Jaya Paramesvaravaman II là vị vua cuối cùng có công trong việc tôn tạo Mỹ Sơn. Kể từ đó, những tài liệu về sau Mỹ Sơn không thấy được nhắc đến.

        Từ Simhapura, hay cảng biển Đại Chiêm sầm uất, nhiều mặt hàng như vàng, trầm hương, ngà voi, hồ tiêu… những sản vật quý được mang ra trao đổi tạo nên con đường thông thương giữa Chămpa với bên ngoài, giữa miền ngược và miền xuôi, đã mang lại sự giàu có cho các vương triều Chăm xây dựng kinh thành và thánh đô Mỹ Sơn, vừa là nơi giao thoa và tiếp biến những nền văn hóa khác nhau làm giàu tinh hoa dân tộc.

        Trải dài gần mười thế kỷ, với lịch sử hình thành và nhiều thay đổi đi liền với sự phát triển của vương quốc Chămpa, cùng với sự kết hợp những mối liên hệ vùng, khu vực, số lượng đền tháp ngày một xây dựng nhiều hơn, Mỹ Sơn trở thành nơi ghi dấu sự phát triển rực rỡ, đặc sắc của nền nghệ thuật Chămpa. Nhiều phong cách kiến trúc Chămpa được khẳng định và phát triển trong quần thể di tích này.

        Với ý nghĩa là trung tâm tôn giáo của vương quốc cổ Chămpa. Mỹ Sơn có một vị trí tâm linh quan trọng của cộng đồng dân cư, là chỗ dựa tinh thần của người Chăm xưa. Là công trình nghệ thuật độc đáo có giá trị đến ngày hôm nay. Nơi đây từng viên gạch, góc tháp đều khoác lên mình những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo được làm nên bằng những kỳ quan từ sức con người. Và sự bừng cháy của một nền văn minh Chăm rực rỡ.

 

        Kiến trúc nghệ thuật Chăm

        Với quá trình xây dựng liên tục suốt từ thế kỷ IV cho đến giữa thế kỷ XIII, các đền tháp ở Mỹ Sơn là những công trình kiến trúc chính thống của quốc gia và đều do các đời vua trị vì xây dựng, vì vậy có thể nói rằng đền tháp là nơi tập trung thể hiện những gì tiêu biểu nhất, tinh hoa nhất điển hình cho nền kiến trúc nghệ thuật đương thời với những dạng thể kiến trúc độc đáo. Hầu hết các phong cách kiến trúc đền tháp Chăm đều có mặt ở Mỹ Sơn và chính bản thân các đền tháp ở Mỹ Sơn lại tạo nên những tiêu chí cơ bản cho việc nhận diện phong cách kiến trúc nghệ thuật Chăm.

        Trong số các dạng kiến trúc tháp Chăm, kiến trúc dạng quần thể thánh địa như Mỹ Sơn là độc đáo và hiếm có. Được bố trí theo cụm, từ hai hoặc nhiều tháp. Có tường bao, sân, đường đi nối các tháp với nhau. Mỗi tháp có mỗi chức năng riêng. Tập trung thành từng nhóm, trong đó đền thờ chính nằm ở giữa, mỗi nhóm đều được bao quanh bởi những bức tường khá dày cũng bằng gạch. Cửa chính của tháp chính phần lớn quay về hướng Đông (hướng về thần linh). Một vài tháp lớn chính có thêm cửa hướng Tây. Trước mặt đền thờ chính (KaLan) là một tháp cổng (Gopura) với cấu trúc nhỏ của hai cửa thông nhau: một cửa về hướng Đông, một cửa hướng vào đền chính, tiếp với tháp cổng thường là căn nhà dài (Mandapa) có mái lợp ngói, bên trong rộng rãi vốn là nơi đón khách hành hương và tiếp nhận lễ vật cũng như cử hành các vũ điệu trong các lễ cúng hiến cho thần linh. Xung quanh ngôi đền chính là các ngôi đền nhỏ hoặc các công trình phụ.

        Phong phú nhất trong kho tàng văn hóa Chăm Mỹ Sơn là hệ thống tượng thần, tu sĩ, hoa văn trang trí, cỏ cây, muôn thú. Thiên nhiên vũ trụ là sự giao hòa, đồng nhất. Tất cả được sáng tạo tỉ mỉ, cần mẫn cùng với cấu trúc đền thờ, không gian hành lễ ghi dấu những nghi thức tôn giáo, thờ cúng, thấm đượm niềm sung kính thiêng liêng nhưng vẫn mang tính khoáng đạt vốn rất đặc trưng của tâm hồn Chămpa.

        Rực rỡ và thành công với mảng vật liệu nề,với kỹ thuật cao và hiện đại. Đền thờ đứng vững theo thời gian hàng ngàn năm. Biểu tượng cho một giai đoạn phát triển về mảng kiến trúc trong lịch sử xây dựng. Việc xử lí chất liệu thể hiện yếu tố kỹ mỹ thuật, những tính toán độ bền, kỹ thuật nung, tỉ lệ xây dựng, nền móng cho thấy bàn tay và khối óc tài hoa của người xưa. Không đồ sộ kỳ vĩ như Ăngko (Campuchia), Pagan (Myanma), Bôrôbudua Kala (Inđônêsia) nhưng Mỹ Sơn vẫn có một chỗ đứng quan trọng trong nền nghệ thuật Đông Nam á bởi nó là khu di tích duy nhất của cả khu vực có thời gian phát triển liên tục gần 9 thế kỷ.

        Với lịch sử phát triển lâu dài, Mỹ Sơn trở thành mảnh đất để những kiệt tác nghệ thuật, những tinh hoa văn hóa bừng cháy. Nơi hội tụ của nhiều phong cách kiến trúc Chăm. Từ phong cách cổ (Mỹ Sơn E1),Hòa Lai, Đồng Dương, Mỹ Sơn A1, Ponaga, Bình Định. Tất cả thể hiện trên đất nung và đá sa thạch, vật liệu là thế mạnh của nghệ thuật Chămpa. Một kho tàng văn hóa rực rỡ, một bảo tàng sinh động, mang giá trị thẩm mỹ của nhân loại. Nghệ thuật Mỹ Sơn đã thể hiện đây là mảnh đất của sự khẳng định giao thoa của nhiều nền văn hóa. Trong đó đầu tiên là Ấn Độ thuần túy, sau đó là bản địa, cuối cùng là hội nhập. Mỹ Sơn là một công trình nghệ thuật đặc sắc, độc đáo có giá trị đến ngày hôm nay. Một kỳ quan của tinh hoa nhân loại.

        Cảnh quan không gian Thánh địa

        Không gian Mỹ Sơn là sự thâm nghiêm của núi rừng, phảng phất nét tâm linh. Núi Mhadravata với độ cao 730m (so với mực nước biển), tên gọi được chép trong văn bia đầu tiên tại Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ IV. Nhiều giả thuyết cho rằng ngọn núi này là một đại Linga của thần Siva dựng trong lòng thung lũng - đại Yoni, tạo nên một bộ Linga - Yoni tự nhiên khổng lồ. Mahapavata được ví như ngọn núi Meru trong thần thoại Ấn Độ, nơi trú ngụ của thần linh. Xưa kia các thương thuyền nước ngoài đi lại trên biển Đông xem ngọn núi này như ngọn hải đăng và là cột mốt xác định vị trí thánh địa Mỹ Sơn cũng như vương quốc Chămpa. Từ đỉnh núi nhìn về Mỹ Sơn, những công trình đền tháp như ngọn đuốc sáng giữa màu xanh núi rừng.

 

 

Sông Thu Bồn

 

        Núi Mahadravara - Sông mẹ Thu Bồn

        Suối thiêng/sông thiêng chảy giữa lòng thung lũng tạo nên phức hệ núi đồi, sông suối mang đến trung tâm tôn giáo này những đa dạng của hệ sinh thái, vừa mang lại dòng nước quang năm trong lành cho lễ tẩy trần vào mùa Hindu. Một yếu tố địa văn hóa độc đáo.

        Không gian bảo tồn Mỹ Sơn còn lưu giữ trong lòng nó nhiều động thực vật có giá trị khoa học và nghiên cứu. Thực vật có sến, trắc, lim, dẽ đỏ, tràm thị… động vật có gà gô, tắc kè bay, heo rừng, mang lớn…

        Thu Bồn là một trong những con sông chính và quan trọng của tiểu quốc Amaravati (vùng Quảng Nam) trong suốt những thời kỳ lịch sử của người Champa cổ cũng như người Kinh/Việt sau này. Sông thiêng Thu Bồn, còn gọi là Mahadani trong văn bia Chàm, tượng trưng cho nữ thần Ganga - vợ của thần Shiva. 

        Con sông nằm phía Bắc thung lũng Mỹ Sơn, bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh chảy từ Tây sang Đông. Dòng sông là con đường thủy huyết mạch giữa miền ngược với miền xuôi, giữa vùng núi, đồng bằng và vùng biển, đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong mạng lưới thương mại đường sông của tiểu quốc Amaravati. Sông Thu Bồn còn được xem là “con đường muối”. Khu vực ven biển miền Trung có nhiều ngôi làng sản xuất muối, là mặt hàng thiết yếu để cung cấp cho các dân tộc sinh sống ở vùng trung du, và miền núi như người Katu.

        Tiểu quốc Amaravati được hình thành dựa vào sông Thu Bồn, tại đây người Champa đã thiết lập ba trung tâm chính đó là một cảng-thị ở vùng cửa sông, trung tâm kinh tế; một kinh đô ở vùng Trà Kiệu, trung tâm quyền lực hoàng gia; một thánh đô tại Mỹ Sơn, trung tâm tín ngưỡng hoàng gia.

        Đây cũng là mô hình tiêu biểu cho các tiểu quốc khác trong vương quốc Champa, một vương quốc có nền kinh tế chính là hải thương được phát triển dựa vào các cảng-thị nối kết với con đường hải thương quốc tế hay là ‘con đường tơ lụa trên biển’ từ Đông sang Tây.

        Các giai đoạn trùng tu

        Từ khi Mỹ Sơn được M.C Paris phát hiện năm 1898, các nhà khoa học người Pháp  đã có chiến dịch phát quang và nghiên cứu quần thể di tích Mỹ Sơn bắt đầu từ ngày 11 tháng 3 năm 1903 và kéo dài đến ngày 3 tháng 2 năm 1904 do một nhóm công tác của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, đứng đầu là Henri Parmentier phối hợp với Charles Carpeaux thực hiện. Các công trình kiến trúc phân bố rải rác trên một phạm vi lớn, ngang qua một thung lũng có núi bao bọc và cách khá xa khu dân cư lân cận.

        Các nhà khảo cổ học tập trung nỗ lực đầu tiên vào khu vực phía Tây của di tích, nơi tập trung một số lượng lớn kiến trúc (các nhóm di tích B, C và D theo phân loại của Parmentier sau này), sau đó họ bắt đầu công việc ở nhóm A, nhóm E và nhóm F…

         Trong thời gian từ năm 1937-1944, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp trùng tu các tháp thuộc nhóm A,B,C,D:  năm 1939 họ đã cho xây dựng một đập nước để chuyển dòng con suối lớn nhằm bảo đảm an toàn cho khu tháp A, nhưng một trận lũ lớn đã phá hủy đập nước này vào năm 1946.

        Sau giai đoạn này, các công việc nghiên cứu ở đây bị ngắt quãng trong khoảng hơn 40 năm cho đến năm 1980, khi Dự án hợp tác trùng tu song phương giữa Việt Nam và Ba Lan do kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski làm trưởng dự án bắt đầu. Kazimierz Kwiatkowski đã làm việc với một nhóm các chuyên gia di tích, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng, chuyên gia kỹ thuật photogrammetry, chuyên gia khảo cổ học, v.v. Nhóm nghiên cứu phía Việt Nam tham gia dưới sự lãnh đạo của kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, bao gồm các kiến trúc sư, kỹ sư, chuyên gia khảo cổ học và các kỹ thuật viên đồ họa. Trong những năm từ 1980 đến 1986, nhóm nghiên cứu Việt Nam - Ba Lan đã tiến hành các công việc tại Mỹ Sơn như sau: 

  • Khảo sát khảo cổ học về khu di tích Mỹ Sơn và những can thiệp tu sửa cấp thiết cũng như gia cố kỹ thuật đối với các đền- tháp trong các nhóm di tích tại Mỹ Sơn;
  • Nghiên cứu về công nghệ xây dựng của kiến trúc Chăm trong các phòng thí nghiệm tại Warsaw và Torun.
  • Phát quang và ổn định lại mặt bằng nền của các đền - tháp thuộc Nhóm A, B, C và D (công việc thu dọn bao gồm thu dọn hàng nghìn mét khối đất đá, san lấp các hố bom, xử lý cây cỏ che phủ bề mặt hoặc thâm nhập sâu vào các cấu trúc xây gạch);
  • Dọn dẹp và thu nhặt hàng chục nghìn viên gạch cổ được tìm thấy ở các đống đổ nát, sau đó phân loại gạch để có thể tái sử dụng sau này;
  • Dọn dẹp và thu thập các chi tiết trang trí bằng đất nung hoặc đá, xác định vị trí nguyên gốc của chúng phục vụ cho công tác tái định vị sau này. Những chi tiết không xác định được vị trí gốc thì được giữ lại và trưng bày tại khu vực di tích.
  • Gia cố khẩn cấp các tháp và những phế tích kiến trúc có nguy cơ đổ nát khác, sử dụng các giải pháp công nghệ hiện đại;
  • Tái dựng phần đế của các kiến trúc đã bị san phẳng (tại Nhóm C) từ những gì còn sót lại để duy trì dấu tích hiện diện trong tổng thể kiến trúc các Nhóm B, C và D. Công việc tái dựng tận dụng những viên gạch cũ thu nhặt được, sử dụng vữa xi măng nhằm làm bộc lộ rõ phần được trùng tu, tránh nhầm lẫn với các cấu trúc nguyên gốc. Các chi tiết trang trí được tái định vị về vị trí ban đầu khi có thể xác định được;
  • Trong một số trường hợp, khi có cơ sở khoa học tin cậy, các chuyên gia tự cho phép họ phục hồi một cách hạn chế một số phế tích. Tuy nhiên, sự thận trọng quy định trong các nguyên tắc trùng tu quốc tế không cho phép họ cố ý làm giả các chi tiết đã bị mất. Thay vào đó, các chuyên gia đã cân nhắc thể hiện các thành phần phục chế bằng các phương thức mà các thế hệ sau có thể phân biệt được giữa phần trùng tu và phần nguyên gốc.

        Hai đền - tháp D1 và D2 rất phù hợp với mục đích trưng bày các thành phần trang trí của các đền tháp. Các chi tiết này trước đây nằm rải rác khắp nơi và đã được thu thập lại. Thêm vào đó, vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90, kiến trúc sư Kwiat-kowski đã sử dụng một nguồn tài trợ khác để thực hiện cuộc khảo sát các đền - tháp thuộc Nhóm E, phác thảo dự án trùng tu và đã tiến hành tu bổ một phần nhóm di tích này.

        Sau hơn mười năm gia cố, trùng tu di tích, đã khôi phục lại phần nào dáng vẻ ban đầu của Mỹ Sơn như chúng ta thấy ngày hôm nay.